Lịch sử New_Britain

William Dampier là người châu Âu đầu tiên được được ghi nhận đã đến thăm New Britain, việc này diễn ra vào ngày 27 tháng 2 năm 1700: ông đặt cho hòn đảo cái tên Latinh Nova Britannia, (dịch sang tiếng Anh: New Britain).

Vào tháng 11 năm 1884, Đức đã tuyên bố mình có quyền bảo hộ đối với Quần đảo New Britain; thực dân Đức đã quản lý về mặt hành chính New Britain và New Ireland với các tên gọi tương ứng là Neupommern (hay Neu-Pommern; "Pomerania Mới") và Neumecklenburg (hay Neu-Mecklenburg; "Mecklenburg" Mới), và toàn bộ nhóm đảo được đổi tên thành quần đảo Bismarck. New Britain trở thành một phần của New Guinea thuộc Đức.

Năm 1909, số dân bản địa trên đảo được ước tính là 190.000 người; dân cư ngoại quốc là 773 (474 da trắng). Các kiều dân chủ yếu bị giới hạn tại đông bắc bán đảo Gazelle, bao gồm cả thủ phủ Herbertshöhe (nay là Kokopo). Lúc đó, 5.448 ha đã được chuyển thành đồn điền, chủ yếu là trồng dừa, cây bông, cà phê và cao su. Người phương Tây ban đầu tránh khám phá vùng nội địa vì cho rằng các dân tộc bản địa có tính hiếu chiến và sẽ chống lại quyết liệt sự xâm nhập.

Vào ngày 11 tháng 9 năm 1914, New Britain trở thành nơi diễn ra một trong các trận đánh đầu tiên trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất khi Quân Úc đổ bộ lên đảo. Họ đã nhanh chóng áp đảo quân Đức và chiếm được hòn đảo trong thời gian diễn ra chiến tranh.

Năm 1920, Hội Quốc Liên đã đặt New Britain cùng với thuộc địa cũ New Guinea của Đức vào trong Lãnh thổ New Guinea, là một lãnh thổ ủy trị của Úc.

Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, quân Nhật đã tấn công New Britain ngay sau khi bùng nổ chiến sự tại Thái Bình Dương. Vào tháng 1 năm 1942, Nhật Bản ném bom nặng nề Rabaul. Vào ngày 23 tháng 1, hàng nghìn lính thủy quân lục chiến Nhật Bản đã đổ bộ lên đảo, bắt đầu trận Rabaul. Người Nhật sử dụng Rabaul như một căn cứ lớn cho đến năm 1944; nó trở thành một điểm quan trọng để phục vụ cho cuộc xâm chiếm bất thành Port Moresby.